Dàn ý bài văn Nghị luận đoạn trích Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh lớp 9

Lập dàn ý bài văn Nghị luận đoạn trích Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh lớp 9 hay nhất năm học 2022

Dàn ý cảm nhận 1 Nghị luận đoạn trích Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh 

I. Mở bài
– Giới thiệu những nét tiêu biểu nhất về tác giả Lê Hữu Trác và đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh: Một con người toàn tài với quan niệm: “ngoài việc luyện câu văn cho hay, mài lưỡi gươm cho sắc, còn phải đem hết tâm lực chữa bệnh cho người”, đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh là một trong những đoạn trích tiêu biểu trong tác phẩm Thượng kinh kí sự của ông

– Đoạn trích đã thể hiện rõ nét vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác

II. Thân bài
1. Là con người coi thường danh lợi

– Ban đầu, khi đứng trước khung cảnh xa hoa, lộng lẫy của phủ chúa:

    + Cảm thán: “Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn với người thường!”
 
    + Vịnh một bài thơ tả hết cái sang trọng vương giả trong phủ với “gác vẽ, rèm châu, hiên ngọc, vườn ngọc” có hoa thơm, chim biết nói…

– Tuy nhiên, đằng sau đó, tác giả cũng gián tiếp phê phán cuộc sống sa hoa nhưng thiếu sinh khí trong phủ chúa thông qua:

    + Sự miêu tả tỉ mỉ sự sa hoa giàu sang

    + Khi được mời dùng cơm: “Mâm vàng chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ, tôi bấy giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia” ⇒ giọng điệu mỉa mai

    + Cảm nhận về con đường vào nội cung của thế tử: Ở trong tối om, không thấy cửa ngõ gì cả, “Vì thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi” ⇒ Không đồng tình với cuộc sống quá no đủ, tiện nghi nhưng thiếu khí trời và tự do
 
    + Ẩn chứa trong bài thơ là giọng điệu mỉa mai phê phán: “Cả trời Nam sáng nhất là đây!” (phơi bày hiện thực về sự sa hoa của chúa Trịnh)

⇒ Con người coi thường danh lợi

2. Là một thầy thuốc có lương tâm và đức độ

– Tâm trạng của Lê Hữu Trác khi kê đơn cho thế tử có sự mâu thuẫn, giằng co:

    + Hiểu căn bệnh, biết cách chữa trị nhưng sợ chữa có hiệu quả ngay sẽ được chúa tin dùng, bị công danh trói buộc, không được về với núi rừng ẩn dật
 
    + Muốn chữa cầm chừng nhưng lại sợ trái với lương tâm, y đức, sợ phụ lòng cha ông.
 
– Cuối cùng phẩm chất, lương tâm của người thầy thuốc đã chiến thắng. Ông chữa bệnh tận tình bằng tài năng của mình, thẳng thắn đưa ra những cách chữa bênh hợp lí

⇒ Cách lí giải về bệnh tình thế tử Trịnh Cán cho thấy Lê Hữu Trác là một thầy thuốc có lương tâm và đức độ

3. Là con người có cốt cách thanh cao

– Luôn coi việc nối tiếp cái lòng trung của cha ông mình làm tôn chỉ để hành động đúng đắn

– Xem thường danh lợi, yêu thích tự do, mong muốn được sống thanh đạm nơi quê mùa: Suy nghĩ của Lê Hữu Trác khi ông chữa bệnh cho thế tử
 
⇒ Sự coi thường danh lợi của Lê Hữu Trác, mong muốn sống cuộc đời tự do, chữa bệnh cứu người của ông cho thấy một cốt ách thánh cao của một danh y

III. Kết bài
– Khẳng định lại những nét đẹp tâm hồn và nhân cách của tác giả Lê Hữu Trác thể hiện qua đoạn trích và nêu những nét nghệ thuật thể hiện thành công điều đó

– Bày tỏ quan điểm cá nhân về vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác và liên hệ bản thân

Dàn ý cảm nhận 2 Nghị luận đoạn trích Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh 

1. Mở bài

– Giới thiệu khái quát về tác giả Lê Hữu Trác và tác phẩm Thượng kinh kí sự

– Giới thiệu khái quát giá trị nội dung đoạn trích Vào phủ Chúa Trịnh

2. Thân bài

* Cảm nhận về đoạn miêu tả quang cảnh tráng lệ, xa hoa nơi phủ Chúa

– Vẻ nguy nga, tấp nập nhưng không kém phần nghiêm trang, quy củ ở bên ngoài lối vào phủ Chúa: “Chúng tôi đi cửa sau… ai muốn ra vào phải có thẻ”

– Khung cảnh tráng lệ, lộng lẫy khi đi sâu vào trong: Nhà “Đại đường”, “Quyền bồng”, “gác tía” với kiệu son, võng điều, đồ nghi trượng sơn son thếp vàng, “những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy”, “mâm vàng, chén bạc”

– Con đường đến nội cung của thế tử: Qua 5, 6 lần trướng gấm, trong phòng thắp nến, có sập thếp vàng, ghế rồng…., “xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt”

* Cảm nhận về đoạn miêu tả khung cảnh sinh hoạt nơi phủ Chúa với những lễ nghi, khuôn phép 

– Cách nói năng, từ ngữ xưng hô khi nhắc tới Chúa và Thế tử phải cung kính, lễ độ: “Thánh thượng đang ngự ở đấy, hầu mạch, hầu trà, phòng trà,…”

– Thái độ của tác giả khi  ở chốn nội cung: “nín thở đứng chờ ở xa”, “khúm núm đến trước sập xem mạch”, “một viên quan nội thần… lạy bốn lạy”

=> Sự uy quyền của Chúa Trịnh và thế tử; thái độ tôn nghiêm, lễ nghi trong cung cách sinh hoạt của những người sống, làm việc nơi phủ Chúa.

* Vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách cao cả của Lê Hữu Trác: Con người coi thường danh lợi, vinh hoa phú quý, không đồng tình với cuộc sống xa hoa, hưởng lạc nơi chốn phủ chúa; người thầy thuốc có tấm lòng lương y cao đẹp, có kiến thức sâu rộng và dày dạn kinh nghiệm.

3. Kết bài

Nêu cảm xúc và suy nghĩ của bản thân về đoạn trích. 

Dàn ý cảm nhận 3 Nghị luận đoạn trích Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh 

1. Mở bài

– Giới thiệu những nét tiêu biểu về cuộc đời của tác giả Lê Hữu Trác: một tác giả được biết đến không chỉ là một danh y nổi tiếng mà còn là một nhà văn, nhà thơ với những đóng góp đáng ghi nhận cho nền văn học nước nhà

– Đoạn trích Vào phủ chúa trịnh ghi lại một lần được truyền tới phủ chúa chữa bệnh cho thế tử đã trở thành một đoạn trích tiêu biểu trong cuốn Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác

2. Thân bài

a. Quang cảnh và cung cách sinh hoạt nơi phủ chúa

Quang cảnh nơi phủ chúa

Đọc thêm  Dàn ý nghị luận về trách nhiệm của thế hệ trẻ hôm nay trước đất nước dân tộc
Powered by Inline Related Posts
– Vào phủ:

    + Phải qua nhiều lần cửa, với “những dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp”, ở mỗi cửa đều có vệ sĩ canh gác, “ai muốn ra vào phải có thẻ”

    + Vườn hoa: cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương

    + Khuôn viên: có điếm “Hậu mã quân túc trực” để chúa sai phái đi truyền lệnh

– Trong phủ:

    + Những nhà: “Đại đường”, “Quyền bổng”, “Gác tía” với kiệu son võng điều, đồ nghi trượng sơn son thếp vàng và những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy

    + Đồ dùng tiếp khách ăn uống toàn là mâm vàng, chén bạc

– Nội cung thế tử:

    + Phải qua năm sáu lần trướng gấm

    + Trong phòng thắp nến, có sập thếp vàng, ghế rồng sơn son thếp vàng, trên ghế bày nệm gấm, màn là che ngang sân, xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt

→ Lộng lẫy, tráng lệ, thể hiện sự thâm nghiêm và quyền uy tột đỉnh của nhà chúa

Cung cách sinh hoạt

– Quyền uy: Khi tác giả được cáng vào phủ: “tên đầy tớ chạy đàng trước hét đường và cáng chạy như ngựa lồng”, “người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc qua lại như mắc cửi”

– Nhắc đến chúa và thế tử một cách cung kính: “thánh thượng đang ngự ở đấy, chưa thể yết kiến”, “hầu mạch Đông cung thế tử”, “hầu trà”…

– Khuôn phép, lễ nghi: Tác giả không được thấy mặt chúa, chỉ làm theo mệnh lệnh do quan chánh đường truyền tới, trước khi vào xem bệnh cho thế tử phải lạy bốn lạy, muốn xem thân hình của thế tử phải có viên quan nội thần đến xin phép

– Lắm kẻ hầu người hạ: ChúaTrịnh luôn có phi tần hầu chầu chực xung quanh, Thế tử bị bệnh có đến 7, 8 thầy thuốc phục dịch và lúc nào cũng có “mấy người đứng hầu hai bên”

⇒ Cao sang, quyền uy tột đỉnh cùng với cuộc sống hưởng thụ xa hoa đến cực điểm và sự lộng quyền của nhà chúa

⇒ Tác giả không đồng tình với cuộc sống quá no đủ, tiện nghi nhưng thiếu khí trời và tự do

b. Tài năng, y đức của Lê Hữu Trác

– Có sự mâu thuẫn, giằng co:

    + Hiểu căn bệnh, biết cách chữa trị nhưng sợ chữa có hiệu quả ngay sẽ được chúa tin dùng, bị công danh trói buộc.

    + Muốn chữa cầm chừng nhưng lại sợ trái với lương tâm, y đức, sợ phụ lòng cha ông.

– Cuối cùng phẩm chất, lương tâm của người thầy thuốc đã thắng. Ông gạt sang một bên sở thích cá nhân để làm tròn trách nhiệm ⇒ Là một thầy thuốc có lương tâm và đức độ

– Khinh thường lợi danh, quyền quý, yêu thích tự do và nếp sống thanh đạm, giản dị nơi quê nhà

– Kể diễn biến sự việc khéo léo, lôi cuốn sự chú ý của người đọc, không bỏ sót những chi tiết nhỏ tạo nên cái thần của cảnh và sự việc

c. Nét đặc sắc trong bút pháp kí sự của tác giả

– Quan sát tỉ mỉ (Quang cảnh phủ chúa, nơi thế tử Cán ở)

– Ghi chép chân thực

– Tả cảnh sinh động

– Tái hiện diễn biến sự việc một cách khéo léo, thu hút sự chú ý của độc giả, kể tỉ mỉ, chi tiết

Đọc thêm  Phân tích đoạn thơ sau trong bài Đất nước của Em ơi em.... Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.
Powered by Inline Related Posts
3. Kết bài

– Khát quát, nhấn mạnh nội dung và nghệ thuật đoạn trích

– Mở rộng vấn đề: Đoạn trích ghi chép một cách chân thực cho chúng ta hiểu thêm về cách sống, cách sinh hoạt của vua chúa trong quá khứ dân tộc

Dàn ý cảm nhận 4 Nghị luận đoạn trích Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh 

I. Mở bài.


 
– Lê Hữu Trác, biệt hiệu Hải Thượng Lãn ông, là một nhà văn tài hoa, một danh y lỗi lạc thời Lê – Trịnh, ông nghiên cứu y học và viết bộ sách Hải Thượng y tông tâm lĩnh gồm 66 quyển. Thượng kinh kí sự, quyển cuối của bộ sách này, là một tác phẩm văn học đặc sắc.

– Thượng kinh kí sự ghi lại những cảm nhận của tác giả về cảnh vật, con người mà mình đã chứng kiến trong thời gian được triệu về kinh đô chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Đoạn trích thuật lại việc vào phủ chúa Trịnh của Lê Hữu Trác.

II. Thân bài.

Bằng tài quan sát tinh tế và nét bút ghi chép chân thực, sắc sảo, Lê Hữu Trác đã vẽ lại một bức tranh về cuộc sống xa hoa, quyền quý của chúa Trịnh, đồng thời qua đó cũng bộc lộ thái độ coi thường danh lợi của mình.

A. SINH HOẠT TRONG PHỦ CHÚA

1. Quang cảnh và những sinh hoạt trong phủ chúa được ghi lại khá tỉ mỉ qua con mắt quan sát của một người thầy thuốc miền quê lần đầu bước chân vào thế giới mới lạ này. Tác giả tuy là con quan, sinh trưởng ở chốn phồn hoa, từng biết nhiều nơi trong cấm thành, nhưng việc trong phủ chúa thì chỉ mới nghe nói.

– Quang cảnh phủ chúa cực kì xa hoa, tráng lệ và không kém phần thâm nghiêm, nói lên quyền uy tột bậc của nhà chúa:
Khi vào phủ phải qua nhiều lần cửa, với những dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp; nghi trượng, sập, cột đều sơn son thếp vàng, những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy.

Trong khuôn viên phủ chúa, người giữ cữu truyền báo rộn ràng, người có việc quan qua lại như mắc cửi, cho thấy Chúa giữ vị trí trọng yếu và có quyền uy tối thượng trong triều đình.

Hai câu thơ của tác giả minh chứng rõ thêm quyền uy và sự sang cả của phủ chúa:

Xem thêm:  Bình luận về gương, noi gương và nêu gương
Lính nghìn cửa vác đòng nghiêm nhặt
Cả trời Nam sang nhất là đây!

2. Hệ thống quan lại, quân lính, cung tần, người hầu kẻ hạ… trong phú chúa Trịnh bây giờ rất đông, bao gồm: quan Chánh đường Huy Quận công, quan truyền mệnh (truyền lệnh, truyền chỉ), người truyền mệnh, người giữ cửa, vệ sĩ canh giữ cửa cung, quan hầu cận, quan nội thần, quan tả viện, tiểu hoàng hôn, các vị lương y của sáu cung, hai viện, người đứng đầu hai bên, các phi tần chầu trực, cung nhân đứng xúm xít, lính khiêng cáng, đầy tớ của quan Chánh đường, thị vệ, quân sĩ…

– Số lượng, chức vụ, tính chất của những người phục vụ nêu trên cho thấy uy quyền của nhà chúa và hệ thống quan liêu ăn bám rất lớn. Phủ chúa không chỉ giống cung vua, mà còn uy nghi, oai vụ hơn cả cung vua. Ngoài gia đình nhà chúa, các nhân vật lớn nhỏ khác, tuy quyền hành và phận sự có khác nhau, nhưng đều giống nhau ở chỗ cùng dựa dẫm, khúm núm, ninh bợ người trên, củng cố địa vị cá nhân.

B. VIỆC KHÁM BỆNH THẾ TỬ TRỊNH CÁN.

1. Không khí khám bệnh cho thế tử Trịnh Cán vô cùng khẩn trương, nhộn nhịp. Tuy nhiên, tác giả không trực tiếp dùng các từ chỉ sự hối hả, tấp nập, khẩn trương nhưng người đọc vẫn cảm thấy rất rõ không khí đó. Ngay từ sáng tinh mơ đã bị hối thúc bởi tiếng gõ cửa rất gấp,  người đưa tin thì thở hổn hển vì phải chạy để báo tin cho kịp. Lính thì đã đem cáng đến chờ sẵn ở ngoài cửa và yêu cầu phải vào phủ chúa ngay.

– Cảnh đi đường được tác giả dựng lên vừa tức cười, vừa đáng thương. Đầy tớ phải chạy đàng trước hét đường, cáng thì chạy như ngựa lồng khiến người được khiêng bị xóc một mẻ, khổ không nói hết…


 
– Khi bước chân vào cửa phủ chúa, không khi càng khẩn cấp hơn. Người giữ cửa truyền báo rộn ràng, các danh y, cung nữ tấp nập hầu hạ xúm xít bên Trịnh Cán…

Xem thêm:  Phân tích bài thơ Thu Điếu của Nguyễn Khuyến
– Người tường thuật tuy không bộc lộ thái độ của mình bằng ngôn ngữ trực tiếp, nhưng qua cách xưng hô về chúa, cách miêu tả sự việc đã toát lên một giọng điệu hài hước, châm biếm.

Các quan ngự y ngày đêm chầu chực ở “phòng trà” để liệu phương thuốc trị bệnh cho Trịnh Cán, nhưng lại sợ trách nhiệm, chỉ dựa ý quan Chánh đường Hoàng Đình Bảo để ra toa. Ngay cả Hoàng Đình Bảo, sự phu thuộc còn thảm hại hơn, hoàn toàn đặt mọi hi vọng, danh vọng, ngôi vị vào chú thế tử bé con ốm yếu, bệnh hoạn.

2. Hình ảnh thế tử Trịnh Cán xuất hiện trong khung cảnh vây bọc thâm nghiêm, giữa vàng son vương giả nhưng thiếu sinh khí: ở trong tối om (…) Đi qua độ năm, sáu lần trướng gấm như vậy, đến một cái sập thép vàng. Một người ngồi trên sập độ năm, sáu tuổi, mặc tơ lụa đỏ (…) cây nến to cắm trên một cái giá bằng đồng (…) Xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt.

– Cách kể trực tiếp, Thế tử cười; “Ông này lạy khéo”, gợi rõ bản chất thơ trẻ, hồn nhiên nhưng cũng ra vẻ “bề trên” của thế tử. Song, khi cởi áo, xem bệnh thì tinh khí khô hết, da mặt khô, rốn lồi to, gân thời xanh, tay chân gầy gò… nguyên khí đã hao mòn, thương tổn quá mức. Vừa kể chuyện, trò chuyện với quan Chánh đường, vừa miêu tả, vừa nhận xét, chẩn đoán bệnh, tác giả cho thấy chân dung nhân vật hiện ra thật sinh động cùng với nguyên nhân của bệnh: vì Thế tử ở trong chốn màn the, trướng phủ, ăn quá nom mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi.

3. Tâm trạng, suy nghĩ của tác giả trước khi bốc thuốc:

Sau khi thăm bệnh, đã tìm ra cách chữa cho Thế tử nhưng tác giả lại nghĩ ngợi, đắn đo:

– Nếu chữa được bệnh thì sẽ bị danh lợi nó ràng buộc, không làm sao về núi được nữa. Do đó, ông định dùng phương thuốc hòa hoãn, nếu không trùng thì cũng không sao bao nhiêu, để rút lui về quê sống tự do.

Xem thêm:  Soạn bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc Tác giả Nguyễn Đình Chiểu
– Tuy nhiên, nghĩ lại, tác giả chọn cách phải dốc hết cả lòng thành, để nối tiếp cái lòng trung của cha ông mình.

Ông đã kê toa chữa bệnh đúng lương tâm của người thầy thuốc.

C. Nghệ thuật

– Ghi chép sự việc theo cách vừa thuật sự chân thực, cụ thể vừa nhận xét khéo léo. kín đáo (Mâm vàng, chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ, tôi bấy giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia).

– Khắc họa chân dung nhân vật sinh động bằng vài chi tiết (hình ảnh Thế tử Trịnh Cán).

– Dẫn dắt tình tiết theo trình tự thời gian và không gian rất phù hợp với diễn biến câu chuyện.

– Giọng văn kể chuyện khách quan đồng thời lại xen những câu ý vị. hài hước, tạo sự thú vị cho người đọc: Tôi nín thở đứng chờ ở xa; bị xóc một mẻ; tối tom không tháy có cửa ngõ gì cả…

III. Kết bài

– Vào phủ Chúa Trịnh là một bức tranh hiện thực sắc nét về sinh hoạt của vua chúa thời xưa, cụ thể là uy quyền và cảnh sống xa hoa của chúa Trịnh Sâm.

Qua đoạn trích, với bút pháp kí sự tài hoa, người đọc còn thấy được bức chân dung tự họa của tác giả: một con người trung thực, một danh y có tài, thờ ơ với lợi danh, khinh ghét bọn quyền thế.

Dàn ý cảm nhận 5 Nghị luận đoạn trích Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh 

1. Mở bài

Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm của đoạn trích (Nêu luận điểm của đề).
Không chỉ là một danh y lỗi lạc, Lê Hữu Trác còn là một văn nhân văn nhân tài ba của nước ta ở TKXVIII.

 
Nhắc đến ông không thể không nhắc đến "Thương kinh kí sự". Tác phẩm phản ánh hiện thực sâu sắc cuộc sống xa hoa, giàu sang, quyền huy tột bậc của nhà chúa. Giá trị ấy đặc biệt được thể hiện qua đoạn trích "Vào phủ chúa Trịnh".
2. Thân bài

- (Triển khai vấn đề: Bức tranh chân thực về cuộc sống xa hoa, giàu sang, quyền huy tột bậc của nhà chúa).

Cảnh vật nơi phủ chúa mới lộng lẫy xinh xắn làm sao: Đâu đâu cũng là cây cố um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương. Tất cả điều là kì hoa dị thảo, toàn là những thú quý hiếm mà chỉ có ở nơi đây. Chưa hết thành quách nơi đây mới thực sự là lấu son gác tía. Cung cách xây dựng thật công phu với những dãy hành lang quanh co nối tiếp nhau. Nó tạo cho phủ chúa sự lộng lẫy, nguy nga tráng lệ thật giàu sang mà cũng thật trang nghiêm.
Bên trong nội cung toàn là những thứ quý hiếm như: mâm vàng, chén bạc, ghế rồng, sập vàng, màn là, trướng gấm toàn những thứ "nhân gian chưa từng thấy". Cảnh nơi phủ chúa đẹp và giàu sang đến mức t/g phải thốt lên: "Cả trời Nam sang nhất là đây". Trong lúc đời sống của muôn dân lầm than cơ cực thì cảnh sống nơi phủ chúa mới thật xa xỉ làm sao. Điều này chính là giá trị hiện thực sâu sắc của tác phẩm. Tác phẩm đã tỏ ra khen ngợi nhưng vẫn dửng dưng không hề bị quyến rủ bởi sự giàu sang nơi phủ chúa.
+ Cung cách sinh hoạt: Để vào hậu cung, t/g phải đi qua nhièu lần cửa với những thủ tục rườm rà, nhiêu khê.Những tưởng cứu bệnh như cứu hỏa vậy mà t/g lại phải lui ra chờ vì "thánh thượng đang ngự ở đó". Ông ta còn đang say sưa hưởng lạc với các cung tần mĩ nữ. Xung quanh chúa cha và chúa con có biết bao kẻ hầu người hạ, mặt hoa da phấn, đi lại lặng lẽ như những cái bóng.

+ Nơi ở của thế tử cũng thật khác thường: phải qua 5 - 6 lần trướng gấm, nơi ở tối om, ngột ngạc và thiếu sinh khí. Người ta vì đói ăn thiếu mặc mà bệnh hoạn, ốm yếu đã đành, đây lại vì "ăn quá no, mặc quá ấm" dư thừ về vật chất mà ốm yếu mới thật đau xót làm sao. Chính tác giả cũng cho ngừoi đọc hiểu rõ căn nguyên cơ thể ốm yếu, héo hon, gầy mòn của chúa nhỏ chính là kết quả của lối sống xa hoa giàu sang mà thiếu khí trời và không khí tự do. Cách sống nơi & sinh hoạt nơi phủ chúa càng làm nổi bậc giá trị hiện thực của tác phẩm & đoạn trích.

3. Kết bài

Khẳng định lại vấn đề và liên hệ bản thân.

Dàn ý cảm nhận 6 Nghị luận đoạn trích Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh 

I. Mở bài

Lê Hữu Trác, biệt hiệu Hải Thượng Lãn ông, là một nhà văn tài hoa, một danh y lỗi lạc thời Lê - Trịnh, ông nghiên cứu y học và viết bộ sách Hải Thượng y tông tâm lĩnh gồm 66 quyển. Thượng kinh kí sự, quyển cuối của bộ sách này, là một tác phẩm văn học đặc sắc.
Thượng kinh kí sự ghi lại những cảm nhận của tác giả về cảnh vật, con người mà mình đã chứng kiến trong thời gian được triệu về kinh đô chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Đoạn trích thuật lại việc vào phủ chúa Trịnh của Lê Hữu Trác.
II. Thân bài

- Bằng tài quan sát tinh tế và nét bút ghi chép chân thực, sắc sảo, Lê Hữu Trác đã vẽ lại một bức tranh về cuộc sống xa hoa, quyền quý của chúa Trịnh, đồng thời qua đó cũng bộc lộ thái độ coi thường danh lợi của mình.

A. SINH HOẠT TRONG PHỦ CHÚA

1. Quang cảnh và những sinh hoạt trong phủ chúa được ghi lại khá tỉ mỉ qua con mắt quan sát của một người thầy thuốc miền quê lần đầu bước chân vào thế giới mới lạ này. Tác giả tuy là con quan, sinh trưởng ở chốn phồn hoa, từng biết nhiều nơi trong cấm thành, nhưng việc trong phủ chúa thì chỉ mới nghe nói.

Quang cảnh phủ chúa cực kì xa hoa, tráng lệ và không kém phần thâm nghiêm, nói lên quyền uy tột bậc của nhà chúa:
Khi vào phủ phải qua nhiều lần cửa, với những dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp; nghi trượng, sập, cột đều sơn son thếp vàng, những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy.
Trong khuôn viên phủ chúa, người giữ cữu truyền báo rộn ràng, người có việc quan qua lại như mắc cửi, cho thấy Chúa giữ vị trí trọng yếu và có quyền uy tối thượng trong triều đình.
Hai câu thơ của tác giả minh chứng rõ thêm quyền uy và sự sang cả của phủ chúa:
Lính nghìn cửa vác đòng nghiêm nhặt

Cả trời Nam sang nhất là đây!

2. Hệ thống quan lại, quân lính, cung tần, người hầu kẻ hạ… trong phú chúa Trịnh bây giờ rất đông, bao gồm: quan Chánh đường Huy Quận công, quan truyền mệnh (truyền lệnh, truyền chỉ), người truyền mệnh, người giữ cửa, vệ sĩ canh giữ cửa cung, quan hầu cận, quan nội thần, quan tả viện, tiểu hoàng hôn, các vị lương y của sáu cung, hai viện, người đứng đầu hai bên, các phi tần chầu trực, cung nhân đứng xúm xít, lính khiêng cáng, đầy tớ của quan Chánh đường, thị vệ, quân sĩ…

- Số lượng, chức vụ, tính chất của những người phục vụ nêu trên cho thấy uy quyền của nhà chúa và hệ thống quan liêu ăn bám rất lớn. Phủ chúa không chỉ giống cung vua, mà còn uy nghi, oai vụ hơn cả cung vua. Ngoài gia đình nhà chúa, các nhân vật lớn nhỏ khác, tuy quyền hành và phận sự có khác nhau, nhưng đều giống nhau ở chỗ cùng dựa dẫm, khúm núm, ninh bợ người trên, củng cố địa vị cá nhân.

B. VIỆC KHÁM BỆNH THẾ TỬ TRỊNH CÁN

1. Không khí khám bệnh cho thế tử Trịnh Cán vô cùng khẩn trương, nhộn nhịp. Tuy nhiên, tác giả không trực tiếp dùng các từ chỉ sự hối hả, tấp nập, khẩn trương nhưng người đọc vẫn cảm thấy rất rõ không khí đó. Ngay từ sáng tinh mơ đã bị hối thúc bởi tiếng gõ cửa rất gấp, người đưa tin thì thở hổn hển vì phải chạy để báo tin cho kịp. Lính thì đã đem cáng đến chờ sẵn ở ngoài cửa và yêu cầu phải vào phủ chúa ngay.

Cảnh đi đường được tác giả dựng lên vừa tức cười, vừa đáng thương. Đầy tớ phải chạy đàng trước hét đường, cáng thì chạy như ngựa lồng khiến người được khiêng bị xóc một mẻ, khổ không nói hết…
Khi bước chân vào cửa phủ chúa, không khi càng khẩn cấp hơn. Người giữ cửa truyền báo rộn ràng, các danh y, cung nữ tấp nập hầu hạ xúm xít bên Trịnh Cán…
Người tường thuật tuy không bộc lộ thái độ của mình bằng ngôn ngữ trực tiếp, nhưng qua cách xưng hô về chúa, cách miêu tả sự việc đã toát lên một giọng điệu hài hước, châm biếm.
Các quan ngự y ngày đêm chầu chực ở “phòng trà” để liệu phương thuốc trị bệnh cho Trịnh Cán, nhưng lại sợ trách nhiệm, chỉ dựa ý quan Chánh đường Hoàng Đình Bảo để ra toa. Ngay cả Hoàng Đình Bảo, sự phụ thuộc còn thảm hại hơn, hoàn toàn đặt mọi hi vọng, danh vọng, ngôi vị vào chú thế tử bé con ốm yếu, bệnh hoạn.
2. Hình ảnh thế tử Trịnh Cán xuất hiện trong khung cảnh vây bọc thâm nghiêm, giữa vàng son vương giả nhưng thiếu sinh khí: ở trong tối om (…) Đi qua độ năm, sáu lần trướng gấm như vậy, đến một cái sập thép vàng. Một người ngồi trên sập độ năm, sáu tuổi, mặc tơ lụa đỏ (…) cây nến to cắm trên một cái giá bằng đồng (…) Xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt.

- Cách kể trực tiếp, Thế tử cười; “Ông này lạy khéo”, gợi rõ bản chất thơ trẻ, hồn nhiên nhưng cũng ra vẻ “bề trên” của thế tử. Song, khi cởi áo, xem bệnh thì tinh khí khô hết, da mặt khô, rốn lồi to, gân thời xanh, tay chân gầy gò… nguyên khí đã hao mòn, thương tổn quá mức. Vừa kể chuyện, trò chuyện với quan Chánh đường, vừa miêu tả, vừa nhận xét, chẩn đoán bệnh, tác giả cho thấy chân dung nhân vật hiện ra thật sinh động cùng với nguyên nhân của bệnh: vì Thế tử ở trong chốn màn the, trướng phủ, ăn quá nom mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi.

3. Tâm trạng, suy nghĩ của tác giả trước khi bốc thuốc:

Sau khi thăm bệnh, đã tìm ra cách chữa cho Thế tử nhưng tác giả lại nghĩ ngợi, đắn đo:

Nếu chữa được bệnh thì sẽ bị danh lợi nó ràng buộc, không làm sao về núi được nữa. Do đó, ông định dùng phương thuốc hòa hoãn, nếu không trùng thì cũng không sao bao nhiêu, để rút lui về quê sống tự do.
Tuy nhiên, nghĩ lại, tác giả chọn cách phải dốc hết cả lòng thành, để nối tiếp cái lòng trung của cha ông mình.
Ông đã kê toa chữa bệnh đúng lương tâm của người thầy thuốc.
Nghệ thuật

Ghi chép sự việc theo cách vừa thuật sự chân thực, cụ thể vừa nhận xét khéo léo. kín đáo (Mâm vàng, chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ, tôi bấy giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia).
Khắc họa chân dung nhân vật sinh động bằng vài chi tiết (hình ảnh Thế tử Trịnh Cán).
Dẫn dắt tình tiết theo trình tự thời gian và không gian rất phù hợp với diễn biến câu chuyện.
Giọng văn kể chuyện khách quan đồng thời lại xen những câu ý vị. hài hước, tạo sự thú vị cho người đọc: Tôi nín thở đứng chờ ở xa; bị xóc một mẻ; tối tom không tháy có cửa ngõ gì cả…
III. Kết bài

Vào phủ Chúa Trịnh là một bức tranh hiện thực sắc nét về sinh hoạt của vua chúa thời xưa, cụ thể là uy quyền và cảnh sống xa hoa của chúa Trịnh Sâm.
Qua đoạn trích, với bút pháp kí sự tài hoa, người đọc còn thấy được bức chân dung tự họa của tác giả: một con người trung thực, một danh y có tài, thờ ơ với lợi danh, khinh ghét bọn quyền thế.

Xem nhiều