Dàn ý 1
Mở bài
- Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” được viết sau cảnh tả tài sắc của chị em Thúy Kiều.
- Đoạn trích là bức tranh thiên nhiên đẹp với khung cảnh lễ hội nhộn nhịp, tưng bừng.
Thân bài
- Đoạn thơ là bức tranh thiên nhiên mùa xuân căng tràn nhựa sống và không khí lễ hội rộn ràng với đủ các thanh âm gần xa.
- Cảnh ngày xuân được đặc tả theo trình tự không gian và thời gian.
+ Không gian ngày xuân khoáng đạt, trong trẻo và tràn trề nhựa sống.
+ Không gian trên cao.
+ Chim én bay lượn trên nền trời xuân.
- Không gian trên mặt đất.
+ Cỏ non xanh tận chân trời: Cảm giác bao trùm, bất tận, không nhìn thấy điểm cuối. Cả bức tranh được mùa xuân được phủ lên một màu xanh tràn đầy sức sống.
+ Cành lê trắng: Sự tinh khôi, tinh khiết.
+ Thời gian: Tiết thanh minh vào tháng Ba.
+ “Thiều quang chín chục, đã ngoài sáu mươi”: Đã qua sáu mươi ngày, ý chỉ đã vào tháng Ba.
- Câu thơ thiên về tả cảnh, cảnh tĩnh.
- Bốn câu thơ tả cảnh ngày xuân là sự kết hợp hài hòa giữa âm thanh và màu sắc tạo nên bức tranh ngày xuân đầy sống động.
=> Bút pháp miêu tả, gợi hình, gợi cảm.
Kết bài
- Bức tranh miêu tả thiên nhiên mùa xuân, trong trẻo, hài hòa, thanh khiết.
- Sự sáng tạo trong cách dùng hình ảnh, màu sắc và cách dùng từ của Nguyễn Du.
- Xứng đáng với danh hiệu là một đại thi hào của dân tộc.
Dàn ý 2
Mở bài: Bằng như những nét vẽ vô cùng tài hoa, Nguyễn Du đã phác họa nên bức tranh ngày xuân tươi mới, tràn đầy sức sống và thấm đẫm tâm trạng người trong cuộc:
“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Thân Bài:
Nguyễn Du được coi là “Đại thi hào dân tộc” với tác phẩm nổi tiếng nhất là “Truyện Kiều” – một kiệt tác văn học, là thành tựu tiêu biểu nhất không chỉ trong sự nghiệp thơ văn Nguyễn Du mà còn là của cả nền văn học trung đại Việt Nam.
Trong đó, bốn câu thơ trong đoạn trích ngắn “Cảnh ngày xuân” từ “Truyện Kiều” là đoạn thơ khá tiêu biểu cho bút pháp tả cảnh của Nguyễn Du. Qua đó, khắc họa tâm trạng nuối tiếc, cô đơn của chị em Thúy Kiều.
Trước hết, trong hai câu thơ đầu tiên, tác giả thể hiện cái nhìn thời gian về khung cảnh mùa xuân:
“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”
Tác giả bắt đầu bằng một hình ảnh rất đặc trưng về mùa xuân, đó là “con én đưa thoi”. Nó vừa gợi lên hình ảnh những cánh chim én có thực đang rộn ràng bay lượn vừa mang biểu tượng bước đi nhanh chóng của thời gian. Thế nhưng, người ta nói về “chim én”, riêng Nguyễn Du lại nói “con én”. Điều này cho thấy Nguyễn Du đang muốn nhấn mạnh tới sự đơn độc hơn là thời điềm. Trên bầu trời sáng trong, cao rộng, làm gì có đàn én nào bay dàn hàng, chỉ có độc một cánh én nhỏ bé, cô liêu. Chính Nguyễn Du cũng từng phát biểu trong “Truyện Kiều”:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Chẳng lẽ Thúy Kiều đang cô đơn chăng? Và chính tác giả cũng đang cô đơn chăng? Không gian tươi đẹp này lẽ nào không đủ thỏa mãn, làm ấm lòng con người chăng?
Câu thơ thứ hai, Nguyễn Du sử dụng hệ thống ngôn từ giàu tính ước lệ với hình ảnh “thiều quang”. Thiều quang tức là ánh sáng đẹp. Ánh sáng đẹp của mùa xuân trong “chín chục” ngày vừa qua nay đã “ngoài sáu mươi” rồi. Ở đây, tác giả sử dụng hai con số “chín chục” và “ngoài sáu mươi” để thể hiện khoảng thời gian đã quá nửa mùa xuân. Từ “đã ngoài” ẩn chứa thái độ nuối tiếc thời gian của chị em Kiều. Tâm trạng con người nhạy cảm, tinh tế quá!
Ở hai câu thơ tiếp theo, tác giả chuyển điểm nhìn về mặt đất:
“Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Chỉ với 2 câu thơ thôi mà cả mùa xuân hiện ra như một bức tranh đầy màu sắc tuyệt diệu. Ta thấy bức tranh ấy có hai vùng màu, màu cỏ xanh và màu hoa lê trắng. Thảm cỏ xanh non trải khắp không gian. Phóng tầm mắt xa mãi, xa mãi vẫn chỉ thấy độc một màu xanh ấy. Màu xanh cứ thế chiếm hữu không gian tới tận phía chân trời xa lắc. Màu cỏ đã “non” còn được bổ trợ màu “xanh” càng thêm non tơ, mỡ màng, giàu sức sống. Thảm cỏ làm nền cho cành lê trắng nổi bật. Đây là bút pháp “đòn bẩy”, “vẽ mây nẩy trăng” thường thấy trong thơ trung đại. Chỉ có điều, trên màu xanh vô cùng lại có “điểm một vài” bông hoa lê trắng mà thôi. Bông hoa lê trắng tinh khiết biểu tượng cho vẻ đẹp Thúy Vân, Thúy Kiều và chính tâm hồn tác giả. Còn nền xanh rộng lớn kia là sắc xuân đẹp kì vĩ, vời vợi. Đến đây, chẳng lẽ nhân vật trữ tình vẫn đơn độc hay sao? Làm sao mà không đơn độc khi sự sống mãnh liệt này lại bị bó buộc bởi sự hữu hạn thời gian và không gian. Làm sao mà không đơn độc được khi muốn sống thanh cao mà đời nhem nhuốc, triều đại rối ren.
Tóm lại, bức tranh thiên nhiên cảnh ngày xuân trong bốn câu thơ đầu của bài thơ là tiếng lòng yêu sống và triết lí nhân sinh quan của Nguyễn Du. Những vần thơ đạt đến mức “tuyệt bút” ấy càng khẳng định tài năng và nhân cách bậc “đại thi hào dân tộc”.
Dàn ý 3
Mở bài:
Đoạn trích là một bức tranh thiên nhiên tả cảnh mùa xuân đẹp với khung cảnh lễ hội rộn ràng và tưng bừng.
– Giới thiệu bốn câu thơ đầu:
Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cảnh lê trắng điểm một vài bông hoa.
II. Thân bài:
* Khái quát về đoạn trích Cảnh ngày xuân
– Đoạn thơ Cảnh ngày xuân là một bức tranh thiên nhiên tả cảnh mùa xuân đẹp với một không khí lễ hội rộn ràng và tưng bừng
– Cảnh mùa xuân được Nguyễn Du tả theo trình tự không gian và thời gian.
+ Không gian khoáng đạt: cảnh ngày xuân trong trẻo, tinh khôi và tràn đầy sức sống.
+ Không gian trên trời
+ Chim én đưa thoi
+ Không gian dưới mặt đất
Màu cỏ non xanh rợn đến chân trời: gợi lên không gian khoáng đạt.
Cành lê trắng: gợi sự thanh khiết, trong trẻo.
Thời gian: thời điểm của tiết Thanh minh
Thiều quang chín chục, đã ngoài sáu mươi
⇒ Gợi ra không gian, thời gian: sắc xuân thắm nồng, hội xuân tươi vui và tình xuân ấm áp.
* Liên hệ thơ cổ của Trung Quốc
– Hai câu thơ này thiên về tả cảnh, cảnh tĩnh.
– Hai câu thơ của Nguyễn Du cũng là bức tranh về cảnh sắc xuân nhưng có nhiều màu sắc và tràn đầy sức sống hơn.
Thủ pháp đảo ngữ trong thơ Nguyễn Du khiến cho hình ảnh hoa lê trắng thêm sinh động, lung linh hơn.
⇒ Màu sắc hài hòa gợi nét đặc trưng của mùa xuân.
⇒ Bút pháp miêu tả, gợi, từ ngữ gợi hình: cảnh ngày xuân hiện ra tinh khôi, mới mẻ và tràn đầy sức sống.
III. Kết bài:
– Nội dung: miêu tả bức tranh thiên nhiên mùa xuân trong trẻo, hài hòa, thanh khiết.
– Nghệ thuật: Ngôn ngữ giàu hình ảnh, gợi tả.
Dàn ý 4
Mỏ bài:
Truyện Kiều của tác giả Nguyễn Du tác phẩm rất nổi tiếng trong nền văn học nước nhà. Trong Truyện Kiều, đoạn trích Cảnh ngày xuân là phần mở đầu với bối cảnh du xuân của chị em Thúy Kiều trong khung cảnh thiên nhiên đầy màu sắc và thơ mộng.
Thân bài: Những câu thơ đầu tiên đã vừa tả không gian và nhắc về thời gian đã trôi qua:
Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Ngày xuân đến những cánh én chao liệng trên bầu trời, cánh én đưa thoi xuất hiện như muốn nói rằng mùa xuân đang ở quãng thời gian tươi đẹp và rực rỡ nhất, mùa xuân trôi đi quá nhanh “Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi” như muốn nói đã qua sáu mươi ngày tức là thời gian đang ở tháng ba. Chỉ với hai câu thơ đã tác giả đã miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên và không gian xuân.
Trong hai câu thơ cuối tác giả đã miêu tả rõ hơn về vẻ đẹp thiên nhiên đầy màu sắc với hai gam màu chủ đạo đó là xanh và trắng.
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Màu xanh từ cỏ non trải dài đến tận chân trời, dài như vô tận, điểm xuyết trên nền cỏ xanh là những bông hoa lê màu trắng. Từ câu thơ cổ của Trung Quốc miêu tả vài bông hoa lê đang nở hoa nhưng qua tài năng của Nguyễn Du đã trở nên sinh động, không gian thiên nhiên lúc này đã mở rộng, đẹp và thanh khiết hơn rất nhiều. Chỉ vài bông hoa lê điểm trên nền cỏ xanh nhưng đủ khiến cho không gian sinh động có hồn. Biện pháp đảo ngữ “Cành lê trắng điểm một vài bông hoa” càng làm cho màu trắng thực sự nổi bật hơn giữa nền cỏ xanh, thiên nhiên rộng lớn mênh mông hơn rất nhiều. Với 4 câu thơ đầu tác giả đã giúp người đọc hình dung được bức tranh thiên nhiên tràn ngập sức sống với vẻ đẹp trong trẻo, thanh khiết của cảnh vật đất trời khi mùa xuân.
Kết luận: Nguyễn Du tái hiện bức tranh thiên nhiên vào đầu xuân tràn ngập sức sống và giàu chất thơ. Đây là hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp nhất trong phần mở đầu của bài thơ Truyện Kiều. Ngoài ra, chúng ta còn phải kể đến bút pháp tả cảnh ngụ tình điêu luyện cùng với một loạt các từ ngữ giàu sắc thái biểu cảm được sử dụng trong Cảnh ngày xuân tươi đẹp.
Dàn ý 5
Mở bài:
Thông qua bốn câu thơ đầu của tác phẩm, chúng ta có thể thấy được bức tranh mùa xuân hiện lên tươi đẹp, thanh khiết và tràn trề sức sống dưới ngòi bút tài hoa của tác giả.
Thân bài:
“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Ở hai câu thơ đầu tiên, tác giả đã phác họa bức tranh mùa xuân dựa trên hai phương diện về không gian và thời gian. Vào thời điểm tháng ba, những cánh én đua nhau chao liệng trên bầu trời trong xanh và cao vời vợi. Hình ảnh “con én đưa thoi” còn là một ẩn dụ đặc sắc, khiến bước đi nhanh vội và sự trôi chảy trừu tượng, vô hình của thời gian hiện lên một cách cụ thể như những cánh chim vụt bay đi trên bầu trời, đồng thời gợi liên tưởng đến những câu ca dao quen thuộc trong nền văn học dân gian:
“Thời gian thấm thoắt thoi đưa
Nó đi đi mãi có chờ đợi ai”
Khung cảnh ngày xuân tiếp tục được làm nổi bật ở sắc màu rực rỡ của những ánh nắng ban mai tháng ba – “thiều quang”. Đây là thời điểm sắc xuân đạt đến độ rực rỡ và tươi sáng nhất nhớ những tia nắng lấp lánh. Như vậy, tác giả đã miêu tả bức tranh thiên nhiên sinh động qua chuyển động của những cánh én và vẻ đẹp của những tia nắng. Dường như ẩn sau bức tranh đó là tâm trạng tiếc nuối của con người trước bước đi của thời gian.
Trên nền không gian đó, một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp tiếp tục được phác họa qua những gam màu sắc nổi bật là xanh và trắng:
“Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Hai câu thơ của Nguyễn Du gợi lên những câu thơ quen thuộc trong thơ cổ Trung Quốc:
“Phương thảo liên thiên bích
Hoa lê chi sổ điểm hoa”
(Cỏ thơm liền với trời xanh
Trên cành lê có mấy bông hoa)
Tuy nhiên, nếu hai câu thơ cổ nhấn mạnh sắc thơm của cỏ thì Nguyễn Du chỉ tiếp thu ý thơ và nhấn mạnh vào sắc xanh của cỏ cùng bổ sung vào bức tranh thiên nhiên sắc trắng của hoa lê. Hai gam màu chủ đạo xuất hiện trong mối quan hệ hài hòa qua bút pháp chấm phá. Giữa không gian ngập tràn sắc xanh của cỏ non đến “tận chân trời” xa tít tắp, những cành hoa lê trắng xuất hiện. Nếu như màu xanh non của cỏ làm nổi bật sức xuân và sắc xuân mơn mởn thì sắc trắng của hoa lê tô điểm cho bức tranh xuân vẻ tinh khôi, thanh khiết. Đặc biệt, tác giả đã vận dụng linh hoạt biện pháp đảo ngữ, đưa tính từ “trắng” lên trước động từ “điểm” để tái hiện sự sống động của bức tranh xuân, khiến cảnh vật hiện lên trong trạng thái vận động. Như vậy, dù miêu tả không nhiều, nhưng với những đường nét tạo hình mang tính chọn lọc và hết sức mềm mại, hài hòa, đại thi hào Nguyễn Du đã tái hiện thành công một bức tranh thiên nhiên với vẻ đẹp riêng và tràn trề sức sống.
Kết luận: Qua những câu thơ trên, chúng ta có thể thấy được tình yêu đối với thiên nhiên, cỏ cây của nhà thơ. Đồng thời, đoạn thơ còn thể hiện tài năng của tác giả Nguyễn Du trong việc sử dụng từ ngữ, lựa chọn hình ảnh, thi liệu và sử dụng các biện pháp nghệ thuật để tạo dựng một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp với những sắc màu, đường nét mang đậm tính hội họa.
Dàn ý 6
Mở bài: Nguyễn Du trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân”. Chỉ bằng bốn câu thơ ngắn gọn, 28 chữ cái, nhà thơ đã phác họa thành công một bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi thắm, giàu sức xuân:
Thân bài
Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Hai câu thơ đầu vừa có sức gợi về thời gian, lại vừa có sức gợi về không gian. Ngày xuân thấm thoát trôi qua thật nhanh như thoi đưa. Cả mùa xuân có chín mươi ngày thì nay đã qua tháng giêng, tháng hai và bước sang tháng thứ ba. Ánh sáng của ngày xuân nhè nhẹ, trong veo, lan tỏa, trải dài khắp muôn nơi. Trên nền trời cao là những đàn chim én mùa xuân đang chao nghiêng bay lượn, dưới mặt đất là một thềm cỏ xanh non bất tận trải dài ra tít tắp. Động từ “tận” làm cho không gian mùa xuân như đang giãn nở, ngày càng mở rộng ra biên độ và bao trùm cả không gian xuân là một màu xanh biếc của cỏ lá. Trên nền cỏ xanh tươi ấy là những bông hoa lê điểm vài sắc trắng gợi lên sự tinh khôi, mới mẻ. Biện pháp đảo ngữ có tác dụng tô đậm thêm và làm nổi bật hơn sức trắng của hoa lê trên nền cỏ mùa xuân.
Ở hai câu thơ cuối, nhà thơ đã vận dụng khéo léo, tài tình từ hai câu thơ cổ bên Trung Quốc để viết nên những vần thơ của mình:
Phương thảo liên thiên bích
Lê chi sổ điểm hoa.
Nguyễn Du đã dùng “cỏ non” thay cho “cỏ thơm” (phương thảo) để tô đậm về sắc màu của cỏ. Màu “cỏ non” là màu xanh nhạt, gợi nên sự tơ non, phát triển, giàu sự sống của cảnh vật thiên nhiên. Dưới ánh sáng dịu nhẹ của mùa xuân, cỏ cây như đâm trồi, nảy lộc, mang một màu xanh non bất tận. Trên cái phông nền bức tranh ấy, điểm xuyết màu trắng của những bông hoa lê. Và cái màu sắc trắng ấy sau này cũng đã xuất hiện trong thơ của Tố Hữu trong bài thơ “Theo chân Bác”:
“Ôi sáng xuân nay xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ…”
Hay trong bài thơ “Việt Bắc”, Tố Hữu cũng đã từng viết:
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng…“
Tuy nhiên, nếu như trong thơ Tố Hữu, sắc trắng của hoa mơ là một gam màu chủ đạo, bao trùm lên cảnh sắc thiên nhiên mùa xuân thì trong câu thơ của Nguyễn Du, màu sắc trắng của hoa lê chỉ “điểm” vài nét vào nền xanh của cỏ cây. Chính chữ “trắng” và nghệ thuật đảo là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Du. Chữ “điểm” gợi cảnh động chứ không tĩnh, như có bàn tay của người họa sĩ – thi si hay bàn tay tài hoa của tạo hóa đang vẽ nên thơ, nên họa. Tất cả đều tươi mát, lặng lẽ, thanh tao, căng tràn sức xuân.
Kết luận: Tóm lại, chỉ bằng bốn câu thơ ngắn gọn, cô đúc nhưng dưới ngòi bút và cách miêu tả thần tình, Nguyễn Du đã tạo nên một bức tranh xuân tinh khôi, trong trẻo, thanh khiết và giàu sức sống, mang đậm hơi thở của hồn xuân đất Việt. Đoạn thơ rất tiêu biểu cho bút pháp tả cảnh độc đáo của nhà thơ.